Dear KI,
THƠ FREDERICK FEIRSTEIN
Nhà thơ và nhà phân tâm học Frederick Feirstein là nhà thơ tiền phong Mỹ, một trong những ngừơi sáng lập phong trào thơ Tân Hình Thức (New Formalism Poetry) và Thơ Mở Rộng (Expansive poetry).
Yes, “He” and “She” are two aspects of the same God. God is penitent for what He’s written in the Book of Life — who will live and who will die — which Jews on Yom Kippur contend will happen and for what She’s said about human life. In this case God was powerless to say anything to the killers in the airplanes about the sanctity of of human life than God was able to say anything to the Nazis about the Holocaust. (In my musical drama Heroism to which I allude in “On The Cell Phone” the key song about this is “God Is Frail.”)
But then there is a positive view of God after these lines, in which I try to describe how a sense of the godliness of life helps people fight their intenal fires. If one doesn’t turn against such a sense of God and treat Her as a dirty joke and turn golden faith into materialism through interpersonal intrigue and greed, then one will have intimations of God like the poet can in a meditative state. This theme of course is part of the whole journey that began in the internal hell of “Mock Epic” and ends in the internal heaven of “The Journey” on page 55 where the poet’s spirit rises above tragedy.
Best regards,
Translated into Vietnamese by KI
IMMORTALITY
Poems are written for the folks at home
Who scoffed at what we said in prose.
Poems are written for the folks who doze
In nursing homes, or villages of stone.
Poems are written for idealized others,
For the best traits in our fathers, mothers.
Poems are transcripts of our chromosomes
That once formed moving flesh and bone.
Poems are written sound by line by page
In momentary grief or fear or rage,
Knowing there is no one and no home.
Poems are written for their sake alone.
BẤT TỬ
Những bài thơ được viết cho những bậc cha chú trong nhà
Kẻ nhạo báng những gì chúng ta đã diễn đạt trong văn xuôi
Những bài thơ được viết cho những bậc cha chú ngủ lơ mơ
Trong những nhà dưỡng lão, hoặc ngoài nghĩa trang.
Những bài thơ được viết để lý tưởng hóa kẻ khác,
Vì cá tính nổi bật trong những người cha, người mẹ của chúng ta.
Những bài thơ là bản sao nhiễm sắc thể của chúng ta
Đã từng làm cho thịt và xương di động.
Những bài thơ được viết bởi âm thanh dòng chữ và trang giấy
Trong phút chốc âu sầu, sợ hãi hay giận dữ
(Dù) biết rằng không người và không nhà.
Những bài thơ được viết duy nhất cho chính nó.
ON THE CELL PHONE
You’re in the Berkshires with your girlfriend – “Hi!” –
And, though our house has long been ruined and sold,
You’re driving past it where our road is still
Turning, as always, burning red and gold,
And we’re still in Manhattan, me and Mom,
Our Towers ancient rubble, smoking still,
And only seven years have passed, and we
Are drinking scotch to kill the coming chill.
And now that our retreat is gone (we knew
When we first bought it, it would come to this),
I’m singing Heroism’s final song
About how lovers live from kiss to kiss
Until their autumn ends in killing snow
Falling on rooftops, boxcars, empty streets,
And you are bumping on our narrow road
And blowing kisses at our last retreat,
And in those windows, as in memory,
We’re cooking, reading comics, writing poems
About this future that we knew would come,
Though we were safely sitting still at home.
TRÊN CELL PHONE
Anh ở Berkshires với bạn gái – “Chào anh!” –
Và, dù cho ngôi nhà của chúng tôi đã đổ nát và bán lâu rồi,
Anh lái xe ngang qua đó, nơi con đường
như thường lệ, (sắc lá) đang chuyển màu đỏ và vàng
Và chúng tôi vẫn còn ở Manhattan, tôi và mẹ,
Cái Tháp (của ngôi nhà) là đống gạch vụn (tưởng như đã) cổ xưa, còn bốc khói,
Chỉ mới 7 năm trôi qua, và chúng tôi
Đang uống rượu scotch để giết cái lạnh đang tới.
Bây giờ nơi ẩn cư đó (ngôi nhà) không còn (chúng tôi đã biết
Khi lần đầu mua nó và nó sẽ rơi vào tình trạng như thế),
Tôi đang hát bài hát cuối thiên hùng ca
Về làm sao những người yêu sống bằng nụ hôn và nụ hôn
Cho đến khi mùa Thu của họ chấm dứt trong tuyết rã rời
Rơi trên mái nhà, toa chở hàng, những con phố vắng,
Và anh đang lái xe vào con đường hẹp gồ ghề
Và gửi những nụ hôn giã từ ở nơi ẩn cư cuối cùng của chúng tôi,
Và ở trong những cửa sổ (của ngôi nhà đó), cũng như trong ký ức
Chúng tôi đã nấu nướng, đọc truyện rẻ tiền, làm thơ
Về cái tương lai (của ngôi nhà) mà chúng tôi đã biết nó sẽ rơi vào tình trạng như thế
Mặc dù chúng tôi đang an toàn ngồi lặng lẽ trong nhà (lúc đó).
MOCK EPIC
From darkness, where every hero goes
To find he’s smaller than he had imagined,
I write a devil-may-care duet,
A lullaby for Bosch or Kurosawa.
Survivor guilt or curiosity
Drew me here like a seductive mother
Or the long deep notes from a sea god’s shell,
From the primal scene, or from Sartre’s hell.
I might have dramatized this when young and strong,
Made it a crisis in an epic poem.
But I’m too tired now to make this long.
Besides, all epics only take us home.
BẢN HÙNG CA NHẠO BÁNG
Từ bóng tối, nơi mỗi anh hùng ra đi
Phát hiện hắn nhỏ bé hơn hắn tưởng tượng,
Tôi viết bản song ca không-quan-tâm-tới-hậu-quả
Một bài hát ru cho Bosch hoặc Kurosawa
Mặc cảm tội lỗi của kẻ sống sót hoặc sự tò mò
Đã đưa tôi tới đây như đó là sự cám dỗ của người mẹ
Hoặc những nốt nhạc dài sâu lắng từ cái vỏ của thần biển
Từ cảnh trí nguyên sơ, hoặc từ địa ngục của Sarte.
Tôi có thể đã kịch tính hóa điều này khi còn trẻ và khỏe
Tạo thành cơn khủng khoảng trong một bản hùng ca
Nhưng bây giờ tôi quá mệt để kéo dài thêm bài thơ
Trừ phi, mọi bản hùng ca chỉ đưa chúng ta trở về quê nhà.
* I think your idea is a good one. I would look forward hearing to how the Vietnamese would react to my poems. Bosch was Hieronymus Bosch the Renaissance painter whose portraits of Hell are striking. The other of course matched him in the 20th Century in his images — the Japanese film director Akira Kurosawa.
Hieronymus Bosch (1450 –1516) là họa sĩ Hòa Lan, nổi tiếng với những họa phẩm kỳ lạ. Hell is a Hieronymus Bosch painting made after 1490. It is currently in the Palazzo Ducale, in Venice, Italy. [1]
This painting is part of a series of four, the others are Ascent of the Blessed, Terrestrial Paradise and Fall of the Damned.
Hieronymus Bosch, Visions of the Hereafter – Pigment Analysis at ColourLex
Polyptych (Visions of the Hereafter)
• Terrestrial Paradise
• Ascent of the Blessed
• Fall of the Damned
• Hell
Oil on wood
86.5 × 39.5 (each)
Palazzo Ducale, Venice, Italy
Akira Kurosawa (黒澤 明 or 黒沢 明 Kurosawa Akira?, 23 March 1910 – 6 September 1998)
PHOENIXES
for Matt, later
I thought that I was stronger than I am.
Death after death after death undid me.
My family seemed fresh sacrificial lambs.
Neither the present nor the future hid me,
And not like phoenixes they flew,
But like my old darlings, frightened, holding hands,
And like your high school girlfriend Amy who
Wore Death’s unholy, pale gray wedding band.
Dear nephew, who in my mind won’t grow old,
This is for you, for what you can’t express,
Running as you did when the huge cloud rolled
For endless blocks. For Amy, please stay blessed.
NHỮNG CON CHIM PHƯỢNG HOÀNG
Tặng cháu Matt, đọc sau
Tôi nghĩ rằng tôi đã mạnh mẽ hơn khả năng của tôi
Thần chết rồi thần chết rồi thần chết không làm gì tôi
Gia đình tôi hình như đã trở thành bầy cừu non tế thần
Không có hiện tại hay tương lai che khuất tôi
Và không giống như những con phượng hòang đã bay,
Nhưng giống người tình cũ của tôi, sợ hãi, đôi tay nắm chặt
Và giống như người bạn gái thời trung học Amy của cháu
Đã đeo chiếc nhẫn cưới ảm đạm tái xanh và chia lìa của thần chết
Cháu thân yêu, ai trong tâm trí tôi không già đi
Điều này dành cho cháu, cho những gì cháu không thể diễn tả
Hãy cứ vận hành như cháu đã từng khi đám mây bao la cuộn tròn
So với những khu phố dài vô tận. Vì Amy, hãy ở lại trong ơn phước.
* Chim thần thoại trong những truyện hoang đường, sống khoảng 500 hay 600 nămo73 vùng hoang dã Ả Rập, tự đốt cháy mình và sống lại từ chính tro của mình, thường biểu tượng cho sự bất tử hoặc hy vọng.
OTHERS
There is a timeless world in which they live,
In which old wounds are healed, right paths are taken,
In which they get exactly what they give,
In which they’re loved and pampered, not forsaken.
Some waited too long to have a child,
Some to marry, crumple a dull career,
Some to leave a spouse whose voice was mild
But whittled down their soul from year to year
And some turned wooden in their smiles and tongues
And some paced fragile hour to room to hour
And some took fire and smoke inside their lungs
And turned to powder in their office tower.
Oh, time ticks even in the infant’s caul,
On mourners’ wristwatches despite the Dead.
Somewhere God weeps, sorry for them all,
For what He’s written, and for what She’s said.
I sometimes see The God in Auschwitz smoke.
For years I watched Him fight internal fires.
At times I heard Her as a dirty joke
Old cronies told, maddened by desire
For sex and celebration, holy zest
For golden faith they’d swipe from churches,
Spilling with red wine, Montalcino’s best,
For what intrigue can’t seize, mere cash can’t purchase:
The intimations in the dawning light
That waken in a poet freed from time
Only when passionate, when the mind is right,
Only when stressed, when the soul must scan and rhyme.
NHỮNG KẺ KHÁC
Có một thế giới phi thời gian trong đó họ sống
Trong đó những vết thương cũ được chữa lành, những con đường đúng để đi
Trong đó họ lấy lại chính xác những gì họ cho
Trong đó họ được yêu thương, nuông chiều, không bị bỏ rơi.
Có người đã chờ đợi quá lâu để có con
Có người đã chờ đợi quá lâu để kết hôn
Có người đã chờ đợi quá lâu để bỏ ngang một công việc nhàm chán
Có người đã chờ đợi quá lâu để lại người bạn đời có giọng nói dịu dàng
Nhưng Linh hồn họ đã bình yên dần theo năm tháng
Và có người gượng gạo trong nụ cười và giọng nói
Và có người bước tới lui trong căn phòng qua những giờ khắc mong manh
và có người hít lửa và khói bên trong lồng ngực
Và hóa thành bột trong cơ quan ở tòa tháp.
Ôi, thời gian kêu tích tắc ngay cả trong màng thóp trẻ sơ sinh
Nơi chiếc đồng hồ đeo tay của những kẻ thương tiếc bất kể kẻ chết.
Ở đâu đó Chúa rơi lệ, cảm thương họ’
Vì điều mà Chúa đã viết, và vì điều Chúa đã phán.
Đôi khi tôi thấy Chúa trong khói ở Auschwitz.
Trong nhiều năm tôi đã quan sát Chúa chiến đấu với những ngọn lửa nội tâm
Ở thời khắc tôi đã nghe Chúa như một trò đùa bậy bạ
Những người bạn già chí cốt đã kể lại, bị dày vò bởi ham muốn
Vì dục tình và sự tán tụng, sự ham mê thánh thiện
Vì đức tin vàng ngọc mà họ cuỗm được từ nhà thờ
Chảy tràn ra với rượu đỏ, loại tốt nhất ở Montalcino
Vì điều gì mà âm mưu không thể cầm giữ, tiền mặt không thể mua bán:
Ẩn dụ của lời Chúa trong ánh sáng bình minh
Làm thức dậy trong nhà thơ, trạng thái phi thời gian
Như lúc đam mê, cần tâm trí sáng suốt
Như lúc căng thẳng, cần tâm hồn hòa điệu.
Chú thích
1/ Auschwitz, trại tập trung giết người hàng loạt bằng hơi ngạt, khủng khiếp của Đức Quốc Xã, trong thế chiến II.
2/ Montalcino là một thị xã ở Florence, Ý, sản xuất loại rượu đỏ nổi tiếng, Brunello di Montalcino.
Tác giả là một nhà thơ, nhạy cảm và nhân bản, một trong vài khuôn mặt quan trọng của hai phong trào tiền phong Tân hình thức và Thơ mở rộng, lại sống nơi trung tâm xảy ra cuộc khủng bố ngày 11 tháng 9 – 2001, nên biến cố trên có lẽ đã để lại nơi ông một cảm nhận và ám ảnh sâu sắc. Một con người như vậy, nếu không có niềm tin tôn giáo, có lẽ khó vượt qua để có thể trở lại đời sống bình thường. Trong bài thơ, “He” (nam) và “She” (nữ) là hai diện mạo của Chúa. Chúa là người chuộc tội cho điều Chúa (He) đã viết trong Cuốn sách của Đời sống (The Book of Life) – kẻ sẽ sống và kẻ sẽ chết – và cho điều Chúa (She) đã phán về đời sống nhân loại. Tác giả tin rằng đời sống tôn giáo có thể giúp chúng ta chiến đấu với ngọn lửa nội tâm. Nếu con người không đối xử với Chúa (She) như một trò đùa bậy bạ, biến đức tin thành chủ nghĩa vật chất qua mưu mô và tham ái, thì sẽ nhận được ám dụ lời Chúa, chẳng khác nào nhà thơ đạt đến trạng thái trầm lắng trong cõi thơ.
* As for “Others”: These would be the precious hours people spend and waste in offices. In retrospect after 9/ll, they become fragile hours and all the walking back and forth becomes pacing.
SLEEPWALKERS
We necked on a bench
In Central Park
Till the trees gave up their leaves
To the unholy dark.
We stumbled to Sheep Meadow
And lay sideways down
Till the office lights went out
In the towers of midtown
Where terrorists roamed the streets
Casually as flirts,
Fingering vials of plague
Under New York Yankee shirts.
The autumn sky turned innocent,
Baby pink and blue,
And lit us in a rectangle
Of still green grass, black shoes.
We hopped a local train
To where the terrified stood,
And watched the smoke spread
As long as we could.
NHỮNG KẺ MỘNG DU
Chúng tôi ôm hôn thắm thiết trên băng ghế
Ngoài công viên Central Park
Cho đến khi cây cối trút lá
Vào bóng tối dầy đặc
Chúng tôi ngã xuống công viên Sheep Meadow
Và nằm nghiêng một bên
Cho đến khi những ngọn đèn
Văn phòng trên những tòa tháp
Ở trung tâm thành phố tắt
Nơi những kẻ khủng bố đi lang thang
Ngẫu nhiên như những kẻ tán gái
Dấu những chai vũ khí vi trùng bằng ngón tay
Dưới những chiếc áo sơ mi ghi chữ New York Yankee
Bầu trời mùa thu trở nên vô tội
Như những em bé gái bé trai
Chiếu sáng chúng ta trong một khỏang cỏ
Xanh hình chữ nhật, những chiếc giày đen.
Chúng tôi đã đi một chuyến xe lửa địa phương
Tới nơi những kẻ khủng bố đứng
Và nhìn cột khói tỏa ra
Lâu chừng nào chúng tôi có thể.
Ghi chú: Mặt trời chiếu ánh sang xuống mảng cỏ hình nhữ nhật, ý nói bị sập bẫy. Cỏ xanh tươi cho đến khi bị ô nhiễm bởi tro 9/11, và những chiếc giày đen là của những người nhảy ra từ những tòa nhà.
The sun lights the grass into a rectangle that suggests being trapped. The grass is still green, unpolluted by the ash of 9/ll. The black shoes are those the people are wearing but also is meant to suggest the shoes of the people who had to jump out of the buildings.
SHE HANDS THE FIRE CAPTAIN A PHOTO
His name is Sean, he grins a goofy grin.
If you can find him, call me please.
His eyes are keen – he’s seen the frown of Death!
He’ll say my name – it’s Beth – with his last breath.
He wears a silver cross, a V-shaped scar
Marks his left wrist – no, right! – from a bar fight,
Though he’s just gentle as our Burmese cat.
If you can find his hand – or head! – please tell me that.
He loved these towers and his posh address.
He loved his view, his desk, his colleagues, friends.
He loves the East Side of Manhattan and the West.
He wears a double-breasted blazer, linen pants.
His tie is navy blue and never straight.
He smokes despite me, and he’ll never dance.
His cell phone’s broken and his rent is late.
NÀNG TRAO TAY TẤM HÌNH CỦA ĐẠI ÚY CỨU HỎA
Tên ông ấy là Sean, ông ấy cười toe trông huệch hoạc.
Nếu anh tìm thấy ông ấy, làm ơn gọi cho tôi.
Đôi mắt ông ấy đầy nhiệt tình – ông ấy đã gặp mặt Thần Chết!
Ông ấy sẽ nói tên tôi – đó là Beth – với hơi thở cuối.
Ông ấy đeo thánh giá bằng bạc, một dấu sẹo hình chữ V
Ở cổ tay trái – không, tay phải! – lúc đánh nhau trong một quán rượu,
Mặc dù ông ấy hòa nhã như con mèo Miến Điện của chúng ta.
Nếu anh có thể tìm thấy bàn tay ông ấy – hoặc cái đầu! – làm ơn cho tôi biết với.
Ông ấy yêu thích những tòa tháp này và cái địa chỉ sang trọng của ông ấy.
Ông ấy yêu thích quang cảnh, bàn làm việc, đồng sự của ông ấy, những bè bạn.
Ông ấy yêu thích phía Đông Mahattan và phía Tây.
Ông ấy mặc chiếc áo hai hàng cúc, quần vải sợi.
Cà vạt của ông ấy màu xanh dương và không bao giờ thẳng.
Ông ấy hút thuốc bất kể tôi, và sẽ chẳng bao giờ khiêu vũ.
Cell phone của ông ấy bị vỡ và tiền thuê nhà của ông ấy trả trễ.
It is a brief dramatic monologue. Both are characters I made up but who were typical of many couples ruined by 9/ll. If you have my New & Selected Poems, you’ll see that at least half of them are fictional. If you don’t have the book I will send you a copy. I will be looking for a book on how your language sounds so I can study the poems better. I know I will miss the melodic changes.
FATHER AND SON
Finally I’ve learned forgiveness at this age,
For your mistakes that crippled me,
Which I’ve repeated. I have seen far worse.
You made them out of ignorance, not choice.
The rage I had, the wisdom that I lacked
Amaze me now, as if a page
That I was reading suddenly caught fire
And images of you tumbled from the smoke,
Words you mumbled when you were very tired,
Dying, your hand in mine, that long last night,
Both knowing you had lost all breath to fight.
“It’s late,” you said, “I don’t want you to go.
But you have to leave me.” So I sighed
And, like a child in winter, buttoned up my coat.
“I love you,” we said simultaneously.
“Kiss your son for me,” who then was four months old.
The next day you were found unsaveable and cold.
So if I try to save you on this page
And if you try to save me from your realm,
Eons away, distances so vast
It seems a microscopic stage our past
Of father and son struggling through myth
Which we enacted witlessly and sick,
Dumb, irreconcilable, compelled
To make this seeming paradise a hell
In which we sleptwalked like the shade you are,
The shadow of a man I hoped to be.
Why were we burdened, little you and me
Or, as you often said, “How can this be?”
CHA VÀ CON
Cuối cùng, ở tuổi này, con đã học được sự tha thứ
Vì những sai lầm của cha đã làm hỏng con
Những sai lầm đó con đã lập lại. Con thấy còn tệ hại hơn.
Bởi cha đã phạm sai lầm vì không biết, chứ không phải vì chọn lựa.
Con đã có thừa sự giận dữ, và thiếu sự khôn ngoan
Điều đó làm con ngạc nhiên, như thể một trang sách
Con đang đọc bất thình lình bắt lửa
Và hình ảnh của cha ngã nhào từ cột khói,
Những tiếng cha lầm bầm khi cha đã mệt lả,
Lúc hấp hối, con đã nắm tay cha, đêm dài cuối cùng đó
Cả hai chúng ta đều biết cha đã chiến đấu đến hết hơi
“Trễ rồi,” cha nói, “Cha không muốn con đi.
Nhưng con phải bỏ cha ở lại.” Lúc đó con đã thở dài.
Và, như một đứa trẻ trong mùa Đông, con cài nút áo khóac.
“Con (cha) thương cha (con),” chúng ta cùng nói.
“Hôn đứa cháu cho cha,” đứa cháu mới 4 tháng tuổi.
Hôm sau, cha được tìm thấy đã chết và lạnh.
Như thế, nếu con cứu cha trên trang giấy này
Và nếu cha cứu con từ vương quốc của cha
Khỏang thời gian vô tận vụt qua, khỏang cách quá lớn
Tưởng như một sân khấu vi mô quá khứ của chúng ta
Của cha và con vẫy vùng qua huyền thọai
Mà chúng ta đã diễn vai như mất hồn và chán ngán,
Đần độn, bất tương nhượng, thúc bách
Để làm cái ra vẻ thiên đường này là địa ngục
Trong đó chúng ta mộng du như thể cha là cái bóng
Cái bóng của người đàn ông con mong được trở thành
Tại sao chúng ta bị đè nặng, tuổi thơ của cha và con
Hoặc, như cha thường nói, “Làm sao lại thế này nhỉ?”
Lời tác giả: Những ám dụ của bài thơ này, là sự hòa giải đầy bi kịch. Tôi đã ở bên người cha của mình khi ông chết, và những cảm xúc sau đó là tìm kiếm sự tha thứ và đã tìm thấy sự tha thứ cho những cảnh khó khăn trong mối liên hệ cha con. Trong thời thơ ấu, tôi rất gần gũi ông. Trong thời thanh niên là lúc khó khăn cho cả hai chúng tôi. Sự tìm kiếm đó trong cuốn sách hàm ý sự trùng hợp giữa sự mộng du của chúng tôi xuyên suốt cuộc đời và những kẻ mộng du trong bài thơ về biến cố 9/11, đó là sự liên hệ giữa cơn chấn thương riêng và chung mà tôi đã nói trong Lời cuối.
Như bạn biết, những tập thơ của tôi không phải chỉ là những tuyển tập mà còn là những tập thơ được kết cấu cẩn thận.
This poem alludes to is the tragic reconciliation I had with my father the day he died and my feelings later in which I which I sought forgiveness and found forgiveness for the difficulties in our relationship. In childhood we were very close. In my adolescence it was a difficult time for both of us. Its placement in the book is meant to suggest a parallel between our sleepwalking through life and the sleepwalkers in the 9/ll poem, that is the relationship between private and public trauma I talk about in the Afterword.
As you can gather, my poetry books are not collections but are carefully structured books.
PARENTS
Night after night, as Age walks through my rooms,
Like a clown waddling on stilts of bone,
I smell your bodies, though you’re bodiless,
And understand how easily you were doomed
By business failures, panics, medical mistakes
Which I have suffered for my soul’s sake,
And miss you deeply in this middle age,
As nights when you’d go out like candlelight,
Leaving the smoke of your pipe and cigarette,
Your perfume and your after-shave cologne.
CHA MẸ
Từng đêm, như những ký ức về ba mẹ đi qua căn phòng con,
Giống như anh hề đi lắc lư trên những cây cà kheo bằng xương
Con ngửi thấy mùi thân xác, dù rằng ba mẹ không có thân xác,
Và hiểu làm sao ba mẹ đã dễ dàng rơi vào số phận hẩm hiu
Bởi làm ăn thất bại, sự hỏang lọạn, những sai sót y khoa trị liệu
Con cũng đã khổ đau vì ba mẹ là đấng sinh thành,
Và mất ba mẹ sâu đậm vào tuổi trung niên này,
Giống như những đêm ba mẹ ra đi như ánh nến,
Bỏ lại hơi khói trong tẩu thuốc và thuốc lá,
Mùi nước hoa và mùi dầu thơm cologne sau khi cạo râu.
JOURNEY’S END
The hero’s journey is circuitous,
And brings him home alone,
Quite quiet in the dawn,
To fight what’s hooded, barbarous,
And tries to take possession of his soul.
And if he prays to no One marvelous,
The spirit in him keeps what No One stole.
The spirit in him rises weeping, whole.
SỰ CHẤM DỨT CỦA HÀNH TRÌNH
Hành trình của người anh hùng lòng vòng
Và mang hắn về nhà một mình
Hòan tòan im lặng lúc bình minh
Để chống lại những gì che khuất, man rợ,
Và cố gắng lấy quyền sở hữu linh hồn
Và nếu hắn cầu nguyện với không Chúa phi thường
Tinh thần trong hắn giữ những gì Chúa Vô hình trộm lấy.
Tinh thần trong hắn nổi lên than khóc, tòan thể.
MANHATTAN MUSIC
It’s Easter morning in Manhattan, now
Millennium plus two; still Spring,
That ancient reassuring wonder, where
Clock radios play Vivaldi, wrens
Twitter from trees to clotheslines, jets
Reverberate, couples bicker or moan,
Dogs bark, babies scream, an opera singer
Melodiously clears her throat
To the trumpeting of fire engines
And the bassooning of tugboats
– Incidental music, random, bold
Harmonies, waking Manhattan’s soul.
NHẠC MAHATTAN
Đó là buổi sáng lễ Phục sinh tại Mahattan, bây giờ
Năm hai ngàn lẻ hai; vẫn còn mùa Xuân,
Đó là mùa Xuân cổ xưa, nơi
Chiếc radio chơi nhạc Vivaldi, chim hồng tước
Ríu rít từ những ngọn cây tới những dây phơi quần áo, những phản lực cơ
Dội âm, những cặp vợ chồng cãi nhau hay rền rỉ,
Những con chó sủa, những đứa trẻ khóc, một ca sĩ opera
Hắng giọng thánh thót
Như tiếng kèn trumpet của xe lửa
Và tiếng kèn pha gốt của tàu kéo
– Nhạc đệm, ngẫu hứng, những âm thanh hài hòa
Đậm nét, đánh thức linh hồn Mahattan.
Ghi chú
Clock radios là lọai radio có đồng hồ.
Antonio Lucio Vivaldi (4 March 1678 – 28 July 1741), là một linh mục, một nhà sọan nhạc, một nhạc sĩ vĩ cầm người Ý, sinh tại Venice. Ông được coi là một nhà sọan nhạc vĩ đại thời kỳ Baroque, ảnh hưởng lan rộng khắp Âu châu thời đó. Tác phẩm nổi tiếng là liên khúc viết cho vĩ cầm, Four Seasons.
THE FATHER SAYS
“Yes, I’ve nothing, so I have nothing to give.
I’m so consumed by envy, greed and guilt,
I have to send my kids into the woods.
I can’t endure to see them zestily live.
I’m Hate which I have married in The Witch.
“I couldn’t take their mother’s being good.
Being a poor man. Poor men envy the rich
In spirit, money, time, charm, talent, luck.
I’ve tossed away the flesh I couldn’t fuck.
“When they were small I had confidence and hope.
I felt myself, not a boy in dread,
Not needing what’s most perverse, this bitch
Who stuffs, with me, their pockets full of bread
So we won’t feel guilty, giving them up for dead.
“Children aren’t evil toward their parents.
They’re scapegoats, it’s the other way around.
We’ve put them in the woods or in the ground,
Hansel and Gretel slogging from ditch to ditch.
Having no self, I’ve married Death the Witch.
NGƯỜI CHA NÓI
“Vâng, tôi không có gì, vì vậy tôi không có gì để cho
Tôi quá bận tâm tới sự ghen tị, tham lam và tội lỗi
Tôi đã đưa mấy đứa nhỏ tôi vào rừng
Tôi không thể cam chịu thấy chúng sống đầy năng lượng
Tôi là Ghét đã kết hôn với mụ phù thủy
Tôi không thể có một người mẹ tốt cho chúng.
Vì nghèo. Người nghèo ghen tị người giàu.
tinh thần, tiền bạc, thời gian, sức quyến rũ, tài năng, may mắn.
tôi ném đi … Tôi không thể làm tình
Khi chúng còn nhỏ tôi tin cậy và hy vọng
Tôi tự cảm thấy, không phải là đứa con trai trong kinh sợ
Không có nhu cầu về những gì quá đáng, người đàn bà đáng khing này
Nhét đầy, với tôi, đầy bánh m2 trong túi chúng
Như vậy chúng tôi không cảm thấy có tội, bỏ chúng cho chết.
Trẻ con không độc ác theo cha mẹ chúng
Chúng là những con vật tế thần, đó là lối khác quanh đây
Chúng tôi bỏ chúng trong rừng hoặc trên đất
Hansel va Gretel lê bước từ rãnh này qua rãnh khác
Không có bản thân tôi đã kết hôn với cái chết kẻ phù thủy.
THE STEPMOM
The helplessness of children or the Jews
Makes me feel angry, weak, and vengeful.
Tell me, does it do the same to you?
It always happens when you lose a war.
You scapegoat and you practice child abuse.
All History has practiced sacrifice
On a simple altar or a single tree
Where folks enact a myth or mystery.
Visit a church whose stations of the cross
Tells you what happens when we suffer loss,
Humiliation, poverty of soul.
Christ’s body and Christ’s blood must make us whole.
My husband who is soft gives his children bread.
To stuff their pockets as with good luck charms.
He kneels and prays that they won’t come to harm,
So he can feel less guilty; though I say,
“It’s civilized to send children away,
To the impersonality of ovens,
Not to an altar where their throats are slashed.
Refining Death, we turn them back to ash.”
MẸ KẾ
Tình trạng bơ vơ của trẻ con và những người Do thái
Làm tôi giận dữ, yếu đuối, và trả thù
Nói với tôi, điều đó có giống với bạn?
Nó luôn luôn xảy ra khi bạn chiến bại
Bạn là vật tế thần và bạn lạm dụng trẻ em
Toàn bộ Lịch sử đã kinh qua cuộc hy sinh
Trên một án thờ đơn giản hay trên cây
Nơi những người thân diễn vai huyền hoặc hay bí ẩn
Thăm viếng một nhà thờ mà những vị trí của nó thuộc về thánh giá
Nói với bạn đêìu gì xảy ra khi chúng ta đau khổ vì mất mát
Sự nhục nhã, sự nghèo nàn của tâm hồn.
Thân Chúa và máu Chúa phải làm chúng ta thành toàn thể.
Chồng tôi đã không tuân lệnh khi đưa bánh mì cho lũ trẻ
Nhét đầy vào túi chúng như những bùa hộ mệnh
Ông ta quì xuống và cầu nguyện khi chúng trở về an toàn
Như vậy ông ta cảm thấy ít phạm tội; dù rằng tôi nói,
Đó là cách văn minh khi đưa những đứa trẻ
Tới những lò thiêu vô tri,
Không phải tới một bệ thờ để bị cắt cổ
Tinh chế cái chết, chúng ta làm chúng trở thành tro bụi.
SPRING MUSIC
in memory of Egon Dumler
Philip, Billy, Roger, Bob, and Ted
Won’t see this spring, or any other season.
There’s not one pair of eyes among the dead.
Spring’s rhythmical and rhymed, devoid of reason.
The birds are trilling bits of Bach and Brahms.
The vines are improvising drafts of psalms.
The seemingly senescent cherry trees
Open fresh flowers, pink and white and red
For our gardener listening, eyes closed, on his knees
As if they’re whole notes rising from the dead.
The sky insists it’s innocently blue,
That nothing happened, Egon, not to you.
NHẠC XUÂN
Tưởng nhớ Egon Dumler
Philip, Billy, Roger, Bob, và Ted
Sẽ không còn nhìn thấy mùa xuân này, hay bất cứ mùa nào khác.
Không có cặp mắt giữa kẻ chết.
Vần nhịp mùa xuân, không nguyên do.
Những con chim đang ngân nga một chút Bach và Brahms.
Những cây nho là bản thảo ứng tác của những bài thánh ca.
Những cây anh đào trông già cỗi
Trải những bông hoa tươi, hồng, trắng và đỏ
Vào lúc người làm vườn của chúng ta đang lắng nghe, mắt nhắm, cầu nguyện
Như thể chúng là tòan thể những nốt nhạc trổi lên từ kẻ chết.
Bầu trời vẫn cứ là màu xanh vô tư,
Không có gì xảy ra, Egon, với anh.
THE POND
Nature is never wrong, the lilies say,
Simply alive in the pond, life goes on.
Despite carnivorous violence, firestorms,
We are porcelain quiet. Sit on this bench,
Listen to The Baroque Ensemble play
Music composed during The French
Revolution; cherish the bees
Closed in our petals, close your eyes,
Close them, close yourself in these harmonies.
All civilizations die.
CÁI AO
Thiên nhiên không bao giờ sai, những bông huệ nói,
Đơn giản tồn tại trong ao, cuộc đời trôi đi.
Mặc dầu tính hung hãn của lòai ăn thịt, những cơn bão lửa,
Chúng ta yên lặng như sành sứ. Ngồi trên băng ghế này,
Lắng nghe vở nhạc kịch The Baroque Ensemble
Sáng tác trong thời kỳ cách mạng Pháp;
Yêu mến những con ong
Phủ lấp những cánh hoa, nhắm mắt lại
Nhắm lại, tự khép lại trong những bản hòa âm này.
Mọi nền văn minh chết.
JEU D’ESPRIT
I wrote a lyric that you said was pure,
Full of voiceless plosives, liquids, sibilants,
And, as a young girl licks an ice cream cone,
showed me how you rolled it on your tongue
And sweetly said, It’s written to be sung
By lovers in the shower as they moan
Or on a carpet in a kissing trance
Or in their twenties making up a tour
Of quiet rooms from Paris down toVence
Or in their early sixties left alone
As we are, still romantic, in our dance
That’s sexy, never clumsy, not mature,
Just loosening young vowels on our tongues,
Which in each other’s mouths are always sung
TRÒ CHƠI TINH THẦN
Tôi viết một bản tình ca mà em nói là tinh khiết,
Đầy những âm hơi âm nước âm xụyt không thành tiếng,
Và, như một cô gái trẻ nhấm nháp cây cà rem,
Cho tôi biết làm sao em cuộn nó trên đầu lưỡi
Và ngọt ngào nói, nó được viết để hát lên
Bởi những cặp tình nhân trong phòng tắm như rên rỉ
Hoặc trên tấm thảm trong lúc hôn nhau mê đắm
Hoặc ở tuổi hai mươi trong những chuyến du hành
Nơi những căn phòng yên lặng từ Paris xuống Vernice
Hoặc họ rời khỏi một mình vào đầu những năm sáu mươi
Như chúng ta, vẫn lãng mạn, trong điệu nhảy
Gợi cảm, không bao giờ vụng về, không chấm dứt,
Ngay lúc thả lỏng những nguyên âm non nớt trên đầu lưỡi
Những nguyên âm luôn được hát lên trong miệng nhau.
AS TIME GOES BY
That was a golden age in which we lived.
Each day was summer, God was everywhere,
In every molecule of New York City air
When we were young and just believed in us.
That was a haloed age in which we lived,
Late twentieth century summer, love was everywhere.
I’d stop beside you on our walks to stare
At you, buying a peach, climbing a bus’s stair.
And there were buts, but always and & and
Sitting in Central, doodling each other’s hand,
And I recited poems, my simple fictions
In meter, rhyme, and New York City diction.
As dusk drew near we’d hold a darkening kiss.
When you’re distressed, you must remember this.
THỜI GIAN TRÔI QUA
Đó là thời đại vàng chúng tôi đã sống.
Mỗi ngày là mùa hè, Chúa ở mọi nơi,
Trong mỗi phân tử của bầu không khí New York City
Khi chúng tôi còn trẻ và tin vào sự tồn tại của chúng tôi
Đó là thời đại hào quang chúng tôi đã sống,
Mùa hè cuối thế kỷ hai mươi, tình yêu ở mọi nơi.
Tôi dừng lại bên em trong lúc đi dạo, nhìn
Em đăm đăm, mua một trái đào, leo lên xe búyt
Và có những cái nhưng mà, nhưng luôn luôn và & và
Ngồi ở công viên Central, viết nguệch ngọac vào tay nhau,
Và tôi đọc những bài thơ, những tưởng tượng đơn giản của tôi
Trong thể luật, vần và phát âm của New York City
Trong lúc chạng vạng đến gần chúng ta vẫn còn hôn trong bóng tối.
Khi em đau buồn, em phải nhớ điều đó.
AGING
“After a while we learn to mourn ourselves.”
We talked of aging in the dying light,
And large ambitions, small accomplishments,
Of hurtful actions, what we really meant.
We stayed up well into the night.
You said, We’re well for now,” though nervously.
“9/ll brought this town disease.”
“All valleys of death,” I joked, “and leafless trees.”
You smiled at me dolorously.
Downstairs our precious block was being lit
For Christmas, strings of lights on all the trees,
Snow falling bit by bit by bit.
You kneeled at the window, childlike on your knees.
Did you ever think we would come to this,
We who lived from kiss to kiss to kiss?
Did you think our bodies would frighten us
When we were free and wild and dangerous.
TUỔI GIÀ
“Sau một thời gian chúng ta biết tự thương tiếc.”
Chúng ta đề cập tới tuổi già trong ánh sáng dần tàn,
Và những tham vọng lớn, những thành tựu nhỏ,
Về những hành động gây tổn thương, những gì chúng ta thực sự muốn nói.
Chúng ta vẫn tỉnh queo vào ban đêm.
Bạn nói, “Chúng ta khỏe khoắn cho đến bây giờ,” mặc dù dè dặt.
“9/ll gây bệnh cho thị trấn này”.
“Tất cả những thung lũng của sự chết,” Tôi nói đùa, “và những cái cây trơ lá.”
Bạn mỉm cười với tôi một cách đau buồn.
Tầng dưới dãy phố quí giá của chúng ta được thắp sáng
Với Giáng sinh, đèn chăng trên khắp cây cối,
Tuyết rơi xuống từng chút từng chút.
Bạn quỳ ở cửa sổ, trong sự tôn kính và sợ hãi.
Bạn đã bao giờ nghĩ rằng chúng ta đến thế này,
Chúng ta sống từ nụ hôn tới nụ hôn nụ hôn?
Bạn có nghĩ rằng cơ thể già nua làm chúng ta lo sợ
Khi chúng ta tự do và phóng túng và nguy hiểm.
THE MIRACLE OF ORDINARY LIFE
A play of ours that’s done, a poem that’s read,
A night of making love, a children’s park,
A television flickering in the dark,
A boring rainy Sunday afternoon
Are all that differentiate us from the dead
Who tell us both in dreams, “We’ll see you soon.”
We talk about our memories through the night.
You try to comfort me. I hold you tight
Till one of us falls asleep. The other can’t,
Is too afraid to take a sleeping pill.
The other wakes from nightmare in a pant
And says that time is stronger than our will.
We had so many years of being ill.
Be thankful for just sleeping through the night.
PHÉP LẠ TRONG CUỘC ĐỜI THƯỜNG
Cuộc đời chúng ta hôm nay đã xong, một bài thơ được đọc,
Một đêm giao hoan, công viên của trẻ em,
Chiếc máy tuyền hình nhấp nháy trong bóng tối,
Một buổi trưa chủ nhật mưa buồn
Tất cả phân biệt chúng ta với người chết
Kẻ với cả hai chúng ta trong những giấc mơ, “Chúng tôi sẽ gặp bạn sớm.”
Chúng ta nói về những ký ức của chúng ta qua đêm.
Anh cố an ủi tôi. Tôi ôm chặt lấy anh
Cho tới khi một trong chúng ta rơi vào giấc ngủ.
Người khác thì không thể, họ quá sợ uống thuốc ngủ.
Họ thức dậy trong ác mộng thở hổn hển
Và nói rằng thời gian mạnh hơn ý chí chúng ta.
Chúng ta đã bệnh quá nhiều năm.
Hãy cám ơn vì được ngủ trong đêm.
THE HOUSE WE HAD TO SELL
This is the house we lived in, white as a bride.
Mozart is echoing the birds outside.
We’re sitting at the table playing gin.
My son is laughing every time he wins
Because he’s eight, because we’re all in love,
Living the future we’re still dreaming of.
Spring is in the mountains, green as Oz,
In the fresh-cut flowers in the crystal vase,
Mirroring the garden where the bees are thick.
Though everyone was dying, dead or sick,
These were our uncontaminated hours,
Like bottled water sipped by scissored flowers,
Permanent in memory, sealed by the pain
That childhood ends, and we can’t go home again.
NGÔI NHÀ CHÚNG TA PHẢI BÁN
Đây là ngôi nhà chúng ta đã ở, trắng như một nàng dâu.
Mozart vang vang bầy chim bên ngoài
Chúng tôi ngồi nơi bàn chơi bài
Con tôi cười mỗi lần thắng
Bởi vì nó mới tám tuổi, bởi vì chúng tôi thương nhau
Sống với tương lai chúng tôi mơ về.
Mùa xuân trên núi, xanh như trong câu chuyện Oz
Trong những cành hoa tươi trong bình hoa thủy tinh
Phản ánh khu vườn nơi những bầy ong
Đây là những thời khắc không bị ô nhiễm
Giống như chai nước được hớp bởi những cành hoa
Vĩnh cửu trong ký ức, niêm phong bởi nỗi đau
Thời thơ ấu chấm dứt và chúng ta không thể về lại nhà.
SHAKESPEARE
If I could live a Muslim cabbie’s day
Driving in traffic, parking at noon to pray
In 96th Street’s Mosque, I’d stop to chat
With vendors hawking fruit, pashminas, books
Even about my centuries of fame;
If I could be a New York City hack
I’d give up every sonnet, every play,
Not in disgrace with men’s eyes, not in shame
For just one sandwich stuffed with sizzling fat
Plump Falstaff in a greasy apron cooks,
I’d take blank time, not scripted Fortune, back.
SHAKESPEARE
Nếu tôi có thể sống một ngày của
người tài xế taxi Hồi giáo lái
trong lúc đông xe, ngừng lại buổi trưa
cầu nguyện tại Thánh đường Hồi giáo đường
96, tán gẫu với những người bán
hàng bán trái cây, khăn trùm đầu, sách,
ngay cả hàng thế kỷ tăm tiếng của
tôi; nếu tôi có thể là người tài
xế taxi ở thành phố New York,
tôi sẽ từ bỏ mỗi bài thơ, mỗi
vở kịch, không được trọng vọng dưới mắt
mọi người, không xấu hổ với chỉ một
chiếc bánh sandwich nhét đầy mỡ nóng
do Falstaff béo tròn mặc tạp dề
đầy dầu mỡ làm, tôi chọn một tương
lai mở, không phải thứ tương lai định trước,
nghịch lại.
* Sir John Falstaff là nhận vật trong kịch William Shakerspeare.
Tim Thomson, “Fathern & Son”
THE WITCH
In Freud’s Vienna no one could believe
The children they molested there could feel,
Although from fairytales they did expect
The Witch to heat up children for a meal.
What parents do, what friends of parents do,
What supers, teachers, clergy fix, explore,
Repeats itself in self-deception, war.
You know this as persecuted Jew.
Read your memories Time makes ideal.
The text is there in metaphors and dreams,
In plays, poetry, even business schemes,
In masquerades of prayers against the Real.
Our lives were spent at two, three, four,
Watching a movie, X-rated, humming
The sound track at our parents’ door
— We sometimes hear it when we’re coming.
For years, decades, you repeat this trauma
In myth, the fairytale of World War II;
You bring your past into the drama,
Dreaming you’re gathering gold teeth, brown shoes.
I thought you were talking about The Witch in the New & Selected Poems.
The Witch here on one level abuses helpless children. On another The Witch is The Nazi and there is an implied relationship between the two, that is early trauma can lead to public trauma, even to genocide. The Holocaust is such a public trauma and is referred to in the last line in which Nazis gathered the shoes and gold teeth of Jews they annihilated. It seems like a fairytale at times when we confront the kind of devastation of World War II. Throughout Gravity of the Black Hole The Witch often is a Nazi which can be sensed in Grimm’s fairytales, some of which are explicitly anti-semitic.
MỤ PHÙ THỦY
Ở thành Viên của Freud không ai tin
Những trẻ em bị xâm phạm tình dục có thể cảm nhận
Mặc dù từ những chuyện cổ tích họ đã chờ đợi
Bà phù thủy hâm nóng trẻ em cho bữa ăn.
Bậc cha mẹ làm gì, bạn bè cha mẹ làm gì
Những người giám thị, thày cô giáo, giới tu sĩ chỉnh sửa, thẩm tra gì
Tự lập lại những gì đó trong sự tự lừa gạt, chiến tranh.
Bạn biết điều này như sự ngược đãi người Do thái.
Hãy đọc ký ức của bạn mà thời gian trở nên lý tưởng.
Bản văn ở đó trong ẩn dụ và những giấc mơ,
Trong kịch bản, thơ ca, ngay cả những sơ đồ thương mại,
Trong sự giả trang của những lời cầu nguyện chống lại sự thực.
Đời sống của chúng ta đã tiêu hai, ba, bốn lần
Xem phim, lọai phim tính dục, vo ve
Tiếng nhạc phim nơi của phòng cha mẹ chúng ta
– thỉng thỏang chúng ta nghe và đạt tới khóai cảm.
những năm tháng, những thập niên, bạn lập lại cơn chấn thương này
trong huyền thọai, chuyện cổ tích về thế chiến II
Bạn mang quá khứ vào trong chấn thương này
Mơ thấy đang thu nhặt những chiếc răng vàng và những chiếc giày nâu.
FAIRYTALES
Story-tellers know what scholars learn
That we in time, because of time, must burn
And to the womb of Death we must return.
Fairytales tell us what we can’t forget;
That we are always children, to expect
The witches’ woods of trauma and neglect.
In almost every fairytale we’ve ever heard
We children can’t be seen, can’t say a word,
And know our Fate must always be absurd.
For instance, when the father suffers grief,
He sends us children to our stepmom’s double
Who puts us on a cross or bas relief.
Our task, then, is to be resurrected
By challenging the unexpected,
To re-appear the fractally perfected.
Hansel and Gretel, Snow White are the best
To learn from, learn never to trust or rest
— The poorest of us and the wealthiest.
When we toast Life, remember we’re Death’s guest.
TRUYỆN CỔ TÍCH
Những người kể chuyện biết những gì những nhà học giả nhận biết
Rằng chúng ta ở trong thời gian, bởi vì thời gian, phải bị đốt cháy
Và chúng ta phải trở về nơi tử cung của sự chết
Những chuyện thần tiên kể lại những gì chúng ta không thể quên;
Rằng chúng ta luôn luôn là những đứa trẻ, trông chờ
Những bà phù thủy gặp rắc rối và sao lãng
Trong hầu hết những chuyện cổ tích chúng ta từng nghe
Chúng ta những đứa trẻ không được thấy, không thể nói một lờ
Và biết rằng số phận chúng ta luôn luôn vô lý.
Thí dụ, khi người cha trải qua nỗi u sầu
Ông gửi chúng ta những đứa trẻ tới cùng bà mẹ nuôi
Đặt chúng ta lên thập giá hoặc để chúng ta rơi vào tình trạng còi cọc
Công việc của chúng ta, lúc đó, là phải sống lại
Bởi thách đố điều không ngờ,
Để tái hiện điều hòan thiên từng phần.
Hansel và Gretel, Snow White là hạng nhất
Để học từ, học không bao giờ tin cậy hoặc nghỉ ngơi
– những kẻ nghèo nhất của chúng ta và những kẻ giàu nhất.
khi chúc ta chúc mừng cuộc đời, nên nhớ, chúng ta là người khách của sự chết.
HANSEL AND GRETEL’S FATHER
At home the father was depressed from shattered
Self-esteem. He gave them chunks of bread
And took them to their stepmom’s witch’s woods
And, barely conscious, gave them up for dead.
If their father was rich in grief instead,
Or rich in hope, ambition, or even greed,
He simply might have sexually teased them,
Bounced them playfully on his knees.
CHA CỦA HANSEL AND GRETEL
Ở nhà người cha phiền muộn vì long tự trong
Bị tan nát. Ông đưa cho chúng những mẫu bánh
Và đưa chúng vào rừng của bà mẹ kế phù thủy
Và, thiếu ý thúc, bỏ chúng cho chết
Nếu người cha của chúng dư thừa buồn đau thay vì,
Hoặc dư thừa hy vọng, khát khao, hoặc ngay cả tham lam
Ông đơn giản sẽ nựng nịu chúng,
Để nhún nhẩy đùa vui trên đầu gối
SNOW WHITE
Her face is now a zero of despair
Over aging, money, the fatality
Of menopause, sexual schemers…
She lifts a wisp of gray hair
And tries to grin, “Bring me no more dreamers.”
Now is her final chance to meet The Prince.
“My inner wars are over, I need peace
Not the poison of my mother’s ‘No!’
“I’ve wakened to the dreaded five oh!”
“Hurry, Prince, soon I will be bleeding.
Time brings one down incalculably slow.
My heartbeat’s rapid, terrified of giving.
Like hers, hers, hers!
Hurry, Prince. I’m so tired of living.”
From the author: Ronald Fairbairn was a Scottish Minister and a psychoanalyst. He used a key dream of a patient as a central metaphor which I use in and outside my office. It also is a riddle: You are alone in a room and starving and there is a bowl of soup next to you. But it is poisoned. Most people say they would drink the soup. I say “Why don’t you say No and walk out the door.”
BẠCH TUYẾT
Khuôn mặt nàng tràn đầy tuyệt vọng
Về tuổi tác, tiền bạc, số phận
Vô sinh, những kẻ âm mưu tình dục …
Nàng nâng lọn tóc xám
Và cố tóet miệng cười, “Đừng mang đến tôi những người mơ mộng.”
Bây giờ là cơ hội cuối cùng của nàng gặp gỡ Hòang tử.
“Những cuộc chiến tranh thầm kín của tôi đã qua rồi, tôi cần sự bình yên
Không phải thuốc độc của lời mẹ tôi nói ‘Không!’
“Tôi đã tỉnh dậy vào tuổi năm mươi!”
“Nhanh lên, Hòang tử, chẳng mấy chốc tôi sẽ bị chảy máu.
Thời gian làm suy sụp con người một cách chậm chạp khó mà tính trước.
Nhịp tim của tôi đập nhanh, đáng sợ về sự cho.
Giống như nhịp tim của mẹ tôi, của mẹ tôi, của mẹ tôi.
“Nhanh lên, Hòang tử. Tôi rất mệt vì sự sống.”
Theo tác giả: Ronald Fairbairn là một trưởng Tô Cách Lan và là một nhà phân tâm học. Ông sử dụng một giấc mơ chính yếu của bệnh nhân như một ẩn dụ trung tâm mà tôi dùng ở trong và bên ngòai văn phòng của tôi. Đó cũng là một câu đố: Bạn ở một mình trong căn phòng và đói và có một tô súp bên cạnh. Nhưng tô súp đó đã bị bỏ thuốc độc. Hầu hết mọi người nó họ sẽ ăn tô súp. Tôi nói “Tại sao bạn không nói ‘Không’ và bước ra khỏi căn phòng.”
Tác giả là một nhà thơ và một nhà phân tâm học. Nếu chúng ta đã đọc truyện Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn, sẽ không thấy những chi tiết trên. Bài thơ chứa đầy ẩn dụ, và những ghi chú trên của tác giả hẳn sẽ giúp bạn đọc sắp xếp thành một câu chuyện khác.
HANSEL AND GRETEL
Hansel and Gretel, almost starving, fed
On sacramental pumpernickel bread,
Were led into a petrifying wood.
They played with animated animals
As children or the persecuted do,
Surviving but emaciated, till
They came upon a crippled witch’s house,
Made of cakes and honeyed bread and candied vines.
They ravished them until the witch came out
On crutches, she said, “From the First World War.”
Her mouth was black, her eyes were Nazi red.
“I’ll fatten you on lies,” she bluntly said,
“Which you will swallow, knowing you’ve no choice,”
Then led them in, and music stirred their souls,
Vases were full of roses, lilacs, ferns.
On tables were dark chocolates for their hearts.
And, though she didn’t say they were, sweetbreads
She plucked from other children’s guts.
They ate so fast, they quickly fell asleep.
A crescent moon gave way to Aryan sun.
She lifted Hansel, lay him in a cage
And, while he rubbed his head in disbelief,
She ordered Gretel, “Fatten him on meat,
And rice and cheese, sacher torts, and pie.
This mixture will make all of him taste nice:
His hands, his feet, his eyeballs, and his ears.
I’ll sing for you and put to sleep your fears.”
Her lullaby entranced Gretel to feed
Hansel who ate till his small stomach swelled.
But he secreted a long chicken bone
Because he knew all witches are compelled
To re-enact their evil ways each day.
He knew that in his step-mom’s witch’s house.
So when she’d pinch to see if he was plump.
He’d stick the bone out like a soldier’s stump.
Fed up at last, the witch lit the waiting oven
And ordered Gretel to creep in and test
To see if it was getting Auschwitz-hot.
Gretal delayed. “Fatwa!” the witch exclaimed
And stuck her head in, stupid in her vice.
Gretel shoved her, bolted the oven door:
“Now howl, Mother. We will taste what’s ‘nice.’”
Strong as a Sabra, she unlocked the cage
And led her brother out, uneaten, free.
They scooped up all the witches’ cakes
And brought them home. Poppa was overjoyed.
The witch he married, Tyanny, was dead.
They danced and sang and on the future fed.
HANSEL VÀ GRETEL
Hansel và Gretel, gần chết đói, được cho ăn
bánh thánh bằng lúa mạch đen,
rồi dẫn vào rừng chết.
chúng chơi với những động vật chuyển động
như trẻ em hoặc những kẻ bị ngược đãi chơi,
sống sót nhưng gầy còm ốm yếu, cho tới khi
chúng tình cờ gặp được ngôi nhà của một mụ phù thủy què
làm bằng bánh ngọt, bánh mỳ mật ong và kẹo nho.
Chúng mê mẩn cho đến khi mụ phù thủy ra
Trên cái nạng, mụ nói, “từ thế chiến thứ nhất.”
Miệng mụ đen, mắt mụ màu Phát xít đỏ
“chúng bay phải tin cả những lời nói dối” Mụ nói thẳng thừng
“Đứa nào sẽ nuốt, nên biết là chúng bay không còn chọn lựa”
Rồi mụ dẫn chúng vào, nhạc khuấy động linh hồn chúng
Những bình hoa đầy hoa hồng, hoa đinh hương, là dương sỉ.
Trên những chiếc bàn là bánh cho cô la đen cho những trái tim chúng
Và, dẫu sao mụ đã không nói bánh mì ngọt là từ trong ruột chúng
Mụ móc ra từ trong ruột những đưá trẻ khác
Chúng ăn quá nhanh, chúng nhanh chóng ngả ra ngủ.
Trăng lưỡi liềm đưa đường tới trăng Aryan
Mụ nhấc Hansel lên bỏ nó vào chuồng
Và, trong khi nó vò đầu hồ nghi,
Mụ ra lệnh cho Gretel, “nuôi nó cho mập bằng thịt
Gạo và cheese, bánh mì sacher, và bánh patê.
Hỗn hợp này sẽ làm nó cảm thấy ngon”
Tay nó chân nó, mắt nó, tai nó.
Ta sẽ hát cho mi và bỏ nỗi sợ vào giấc ngủ.”
Mụ ru ngủ Gretel cho Hansel ăn cho đến khi
Bao tử nó căng ra.
Nhưng Hansel bí mật dấu một chiếc xương gà
Bởi nó biết rằng mọi mụ phù thủy đều
Tái diễn những hành vi độc ác mỗi ngày.
Nó biết điều đó khi sống trong ngôi nhà với người mẹ kế phù thủy.
Vì vậy khi mụ ta véo nó xem nó mập chưa
Nó chìa cái xương ra như tay chân còn lại của người chiến sĩ.
Cho ăn lần cuối, mụ phù thủy mở cái lò đang chờ đợi
Và ra lệnh cho Gretel bò vào thử
Xem nó có nóng như một lò thiêu người
Gretel chậm trễ. “Nhanh lên đi” mụ la lớn
Và đưa cái đầu vào, lỗi lầm ngu ngốc của mụ
Gretel xô mụ vào, đóng cái lò lại:
“bây giờ tru lên đi, má. Chúng ta sẽ nếm xem cái gì ngon”
Mạnh mẽ như một người Do thái chính gốc, cô mở cái lchuồng
Và dẫn anh mình ra, không bị ăn thịt, tự do.
Chúng thu hết những loại bánh của mụ phù thủy
Và mang về nhà. Người cha vô cùng sung sướng.
Người vợ phuì thủy của ông đã chết.
Cả nhà nhảy múa hát không còn phải lo cái ăn trong tường lai.
Chú thích
Hansel (anh) và Gretel (em gái) là con một người tiều phu nghèo, bị người mẹ kế âm mưu làm cho người cha phải vào rừng, để tránh bớt miệng ăn. Trong rừng chúng phát hiện một ngôi nhà làm bằng bánh mì và bánh ngọt. Nhưng đó là ngôi nhà của một mụ phù thủy già, chuyên môn dụ dỗ con nít để ăn thịt. Bà ta bắt Gretel làm nô lệ, và nhốt Hansel trong một cái lồng sắt, nuôi Hansel cho mập để ăn thịt. Nhưng vì bà ta mù nên mỗi lần kiểm tra Hansel đưa ra một khúc xương. Sau một tuần, mất kiên nhẫn, bà ta sai Gretel đốt lò và thúc giục Gretel thò vào xem lò nóng chưa. Gretel làm bộ không hiểu, bà ta tức giận tự thò đầu vào, ngay lập tức Gretel xô bà ta vào trong lò lửa. Bà phù thủy cháy thành tro và hai anh em, vơ vét ngọc ngà châu báu tìm đường về nhà. Người dì ghẻ đã chết và người cha mừng rỡ đón các con trở về, sống trong giàu có.
Snow White, tức Truyện Bạch Tuyết và Bảy chú lùn. Ngày xưa có một bà hòang hậu, ngồi khâu ở cửa sổ, bất ngờ cây kim chích vào ngón tay, rơi 3 giọt máu xuống tuyết và thành cửa sổ màu gỗ mun. Bà ước sinh được một cô gái da trắng như tuyết, môi đỏ như máu và tóc đen mun. Chẳng bao lâu bà hạ sinh một công chúa với những đặc điểm trên, đặt tên là Bạch Tuyết. Ngay sau khi sinh Bạch Tuyết, bà qua đời.
Nhà vua lấy vợ kế, rất đẹp nhưng tự cao. Bà ta có một chiếc gương thần, và thường hỏi gương, “Gương ơi, ai là người đẹp nhất trong đất nước này?” Và gương thần luôn luôn trả lời, “Bà là người đẹp nhất.” Nhưng khi Bạch Tuyết lên bảy thì gương thần trả lời, “Bạch Tuyết là người đẹp nhất.”
Vì lòng ghen tỵ, bà sai một người thơ săn mang Bạch Tuyết vào rừng giết đi, và mang về cho bà ta trái tim. Người thơ săn thả Bạch Tuyết đi và lấy tim một con nai nhỏ thay vào. Trong rừng, Bạch Tuyết được bảy chú lùn săn sóc. Về phần người dì ghẻ, bà biết Bạch Tuyết còn sống, khi hỏi gương thần. Bà thân vào rừng, ba lần hãm hại Bạch Tuyết nhưng đều được bảy chú lùn giải cứu. Cuối cùng, bà giả làm vợ một người nông dân, dâng trái táo có tẩm độc cho Bạch Tuyết. Bạch Tuyết ăn phải và rơi vào giấc ngủ hôn mê. Bảy chú lùn đặt Bạch Tuyết trong chiếc quan tài bằng kính. Thời gian trôi qua, có một hòang tử đi ngang, trông thấy Bạch Tuyết, bèn mang quan tài nàng đi. Trong lúc di chuyển, va vào bụi rậm, khiến cho miếng táo độc trong cổ họng rơi ra, đánh thức nàng dây. Hòang tử tuyên bố làm đám cưới với Bạch Tuyết.
Không biết Bạch Tuyết còn sống, một hôm bà dì ghẻ hỏi gương thần, gương thần trả lời, “Hòang hậu trẻ một nghìn lần đẹp hơn bà.” Không biết hòang hậu trẻ là con ghẻ của mình, bà tới dự đám cưới và chết điếng khi biết sự thật. Để trừng phạt, một đôi giày sắt được mang tới và buộc bà phải xỏ chân vào, và khiêu vũ cho đến khi ngã chết.
THE PRINCE
In this fairytale of rescue we know well,
No one speaks of the Prince and what he’s giving
– His confidence, his courage, and his hope
Despite his journeys through his inner hell
– His fire-breathing Sis who couldn’t cope
With masculinity and independent living
So here’s Snow White, apparently not living.
Behind her glass, she doesn’t look too well.
Yet the Prince still has the innocence to hope
– Like Pop who would debase his youthful hope:
“Your sacrifice will make your sister well.
Watch me with Mom who’s never unforgiving.”
He can resuscitate her with this kiss he’s giving:
Warmed by the fire in her inner hell,
He doesn’t hear her cackle, “Your breath’s smoke.”
Or see the Mother Witch inside her unforgiving,
Or the Victim shouting in the mirror, “I can’t cope!
This Prince here thinks I’m actually living?
“He doesn’t know I’m happiest with dopes,
My seven ex-s with their dwarfish living.”
“I’m happiest, poor Prince, when I’m not feeling well,
“For I was fed red apples plucked from Hell.
I can’t digest your antidote of giving:
Your confidence, your courage, and your hope!”
The Prince thus lonely, maddened, learns to cope.
And, though he doesn’t feel or look too well,
He to stay alive he constantly keeps giving
While over him she knots a zero rope
HOÀNG TỬ
Trong truyện cổ tích này về sự giải cứu, chúng ta biết rõ
Không ai nói về Hòang tử và những gì chàng cho
– Sự tự tin, lòng can đảm và niềm hy vọng
Mặc dù hành trình của chàng xuyên qua địa ngục thâm sâu
– Người chị giận dữ của chàng không thể đối mặt
Với cuộc sống độc lập đầy nam tính
Giống như vua Pophạ thấp niềm hy vọng trẻ trung của chàng
“Sự hy sinh của ngươi sẽ làm cho chị ngươi hài lòng
Hãy nhìn ta với mẹ ngươi không bao giờ khoan dung.”
Như vậy đây là bạch Tuyết, rõ ràng không còn sống
Đằng sau lớp kính, nàng nhìn không tươi thắm
Hoàng tử vần cón là sự ngây thơ để hy vọng
Chàng có thể làm nàng sống lại với một nụ hôn:
Làm ấm lại bằng lửa nơi địa ngục thâm sâu của nàng
Chàng không nghe nàng động đậy gì, “hơi thở của chàng là khói”
Hoặc nhìn người Mẹ phù thủybên trong sự không khoan dung của nàng,
Hoặc Nạn nhân gào lên trong tấm gương, “tôi không thể đối mặt!
Chàng hoàng tử này đây nghĩ rằng tôi thật sự đang sống?
Chàng không biết tôi hạnh phúc với những chất kích thích,
Bạch tuyết và bảy chú lùn của tôi với cuộc sống lùn tịt của họ.”
“Tôi hạnh phúc nhất, hỡi hoàng tử tội nghiệp, khi tôi cảm thấy không khoẻ,
Vì tôi được ăn những trái táo đỏ ngắt xuống từ địa ngục
Tôi không thể tiêu hóa thuốc giải độc chàng cho:
Long tự tin, sự can đảm, và hy vọng của chàng!