Điều nói trên, trái ngược với định nghĩa mang tính chính trị, “cách mạng là xóa bỏ cái cũ, thay thế bằng cái mới, tiến bộ hơn”. Thơ, như vậy, là một cuộc hành trình quay trở lại. Thơ Mỹ, sau một thế kỷ thơ tự do, phiêu lưu đi tìm cái mới, cuối cùng phải quay trở lại thể luật với thơ Tân hình thức Mỹ. Quay trở lại, không có nghĩa là rập khuôn như cũ, mà là trở về với giá trị truyền thống, hòa quyện với hiện đại, làm thành một hình thái khác. Nhưng không phải chỉ có thơ quay trở lại, mà ngay cả giáo dục cũng đang quay trở lại. Nhà thơ Frederick Turner, trong một bài viết cho Poetry Journal In Print (Báo Giấy), “Sinh Khí Thơ của Tam Khoa”, cho rằng, “Tam khoa liên quan tới chương trình giáo dục cổ điển – “ba phương pháp” – văn phạm, lý luận và hùng biện, là nền tảng thiết yếu của thơ.” Theo ông, thể thơ là quan trọng vì đó là nguyên tắc thực hành thơ, nhưng nội dung, thực chất và chủ đề thơ mới là điều cốt yếu, để kết hợp tư tưởng và cảm xúc, đạt tới sinh khí mạch lạc đáng nhớ cho thơ.
Giáo dục cổ điển bắt nguồn từ thời cổ Hy lạp (thế kỷ thứ 5 trước công nguyên tới năm 146). Pythagoras coi toán học, thiên văn học, âm nhạc là những khoa học gắn bó với nhau. Plato đồng ý và phác thảo lý tưởng giáo dục làm 3 cấp, sơ cấp, trung cấp, và cao cấp. Ở lớp sơ cấp, học sinh học thể dục, âm nhạc và chữ (văn phạm). Ở trung cấp, học sinh học số học, hình học, thiên văn học và âm nhạc (sự hài hòa). Ở lớp cao cấp, học triết học. Đến thời Đế quốc La mã, (thế kỷ 1 trước công nguyên đế năm 476), tiếp nhận quan điểm giáo dục của những nhà Sophist thời cổ Hy lạp với văn phạm, lý luận và hùng biện, và thêm vào các môn số học, hình học, âm nhạc và thiên văn tương đương với sơ và trung cấp thời Hy lạp. Vì vậy, khi nhắc tới giáo dục cổ điển phương Tây, người ta nghĩ tới giáo dục La Hy. Tới thời Trung cổ (500-
1460 sau công nguyên) được hệ thống hóa thành hai cấp: Tam khoa (Trivium), còn được gọi là nghệ thuật của ngôn ngữ hay văn học, theo tiếng Latin là “nơi ba con đường gặp nhau”, ba giai đoạn giáo dục, từ tiểu học đến hết trung học. Tứ khoa (Quadrivium), bậc đại học, còn gọi là nghệ thuật số (arts of number) hay những nguyên tắc toán học gồm: số học (arithmetic), hình học (geometry), âm nhạc (harmonics), và thiên văn học (astronomy). Cuối thời Trung cổ, giáo dục cổ điển xói mòn cho đến thời Phục hưng (1350 – 1600) mới hồi phục trở lại, quan tâm tới đời sống thế tục thay vì tôn giáo.
Giáo dục Anthens cổ, tiêu biểu cho giáo dục cổ Hy lạp, chỉ có trường tư, bắt đầu lúc 7 tuổi: Học chữ (letters) bao gồm: đọc, viết và số học, thơ của Homer, Iliad và Odyssey. Giai đoạn 2: Âm nhạc, hát và chơi đàn lyre và sáo. Sau khi đọc thông viết thạo, học sinh được dạy về lịch sử, địa lý, đạo đức (ethics), Học Đức hạnh (virtue), lòng can đảm và những vị anh hùng như Achilles, Ulysses. Giai đoạn 3: Thể dục (14 tới 16 tuổi).
Đến 16 tuổi, học sinh hoàn tất chương trình giáo dục căn bản. Sau đó, các học sinh giàu có có thể theo học các trường Academy của triết gia Plato, hoặc Lyceum của triết gia Aris-totle. Những trường này giống như các trường đại học, hay có thể chọn theo khoa hùng biện của các thầy Sophist, học cách thuyết phục và tranh luận trong những sinh hoạt chính trị. Mặt khác, học sinh cũng có thể theo học y khoa để trở thành bác sĩ. Như vậy, triết học và thể chế dân chủ là hai nét đặc trưng của văn minh cổ Hy lạp. Quan niệm về hùng biện cũng khác nhau. Những nhà chính trị chỉ quan tâm tới làm sao để người dân bỏ phiếu cho mình, bất kể sự thực, trong khi những nhà triết học quan niệm hùng biện phải theo đuổi kiến thức, phân biệt sự đúng sai.
Ngày nay, khi đề cập tới giáo dục cổ điển, người ta thường chỉ còn nhắc tới tam khoa. Tam khoa do những nhà Sophist (học giả) Hy lạp phát minh đầu tiên, khi họ đi khắp các thành bang Hy lạp để truyền bá kiến thức. Họ dạy hùng biện theo cách biện chứng và với ngữ pháp. “Biện chứng” (dialectic) là một hình thức của lý luận, dùng đối thoại và tranh luận (trao đổi ý tưởng) để đạt tới sự thật, là một phần quan trọng trong tư duy phương Tây, chú tâm tới ngôn ngữ, qua chữ viết và lời nói, hơn là hình ảnh. Học qua ngôn ngữ khác với hình ảnh. Học ngôn ngữ đòi hỏi tâm trí phải làm việc để chuyển dịch hình tượng (chữ trên giấy) thành ý tưởng. Học qua hình ảnh, với màn hình (video), tâm trí thụ động, thảnh thơi, ít bị bị căng thẳng. Ở giai đoạn đầu, học sinh tiếp thu các dữ kiện và hình ảnh, nhưng ở giai đoạn sau, chú tâm vào ngôn ngữ, với công cụ lý luận, sắp xếp các dữ kiện, và cuối cùng là sự tự diễn đạt. Tam khoa tùy thuộc vào 3 tiến trình:
Giai đoạn Văn phạm (Grammar stage): từ lớp 1 đến lớp 4, học sinh tiếp thu kiến thức hay những dữ kiện, bằng cách học thuộc lòng. Trước 10 tuổi, trẻ em chỉ ghi nhớ những ý tưởng cụ thể, thích nghe đi nghe lại những câu truyện kể, những bài hát. Học sinh học đánh vần, ngữ vựng, luật văn phạm, học thuộc lòng thơ. Tới tuổi từ 10 đến 12, học sinh nối kết giữa ngôn ngữ và văn học, qua giác quan, học về số học cơ bản, địa lý, những câu truyện lịch sử, loài vật, cơ thể con người …
Giai đoạn Lý luận (Logical stage): Từ lớp 5 đến lớp 8, học sinh học cách suy nghĩ qua những cuộc tranh luận, học cách lý luận và áp dụng vào các môn học. Lý luận về viết liên quan tới việc cấu trúc những đoạn văn và chủ đề. Lý luận đọc liên qua tới phê bình, phân tích bản văn. Lý luận về lịch sử, tìm kiếm sự thật tại sao những cuộc chiến tranh xảy ra. Lý luận khoa học, học những phương pháp khoa học.
Từ tuổi 12 tới 15, khi khả năng những suy nghĩ trừu tượng bắt đầu, học sinh liên kết ngữ vựng với nhau thành câu, cũng như am hiểu và liên kết các dữ kiện để tạo ra ý nghĩa. Ở giai đoạn này, học sinh căn cứ vào những dữ kiện và kiến thức đã thâu đạt, học các phương pháp lý luận, khơi dậy khả năng tranh luận, khám phá, tìm kiếm sự thật, phân biệt đúng sai, phân tích và đánh giá, đặt câu hỏi về những biến cố lịch sử …
Giai đoạn Hùng biện (Rhetoric stage): Từ lớp 9 tới lớp 12, học sinh áp dụng những nguyên tắc lý luận và kiến thức căn bản thu thập được, học cách tự diễn đạt qua cách viết và nói. Từ tuổi 16 tới 18, học sinh được dạy về kỹ năng thuyết trình, kết hợp với ngôn ngữ và lý luận, phát hiện khả năng phát biểu trước đám đông, theo đuổi những sinh hoạt chính trị …
Phương Tây, qua nhiều thời kỳ văn minh, nhưng tại sao giáo dục cổ điển vẫn được coi như nền tảng phát triển trí tuệ con người? Cho đến bây giờ người ta mới kết hợp với những khám phá về não bộ để giải thích: giai đoạn văn phạm phù hợp với sự phát triển bán cầu não phải của trẻ em từ lúc mới sinh, và bán cầu não trái bắt đầu hình thành và đúng vào thời điểm trẻ em bước vào tuổi đi học. Cả hai kết hợp giữa ý thức và bản năng, giúp các em phát hiện khả năng phát minh và sáng tạo ở tuổi trưởng thành.
1/ Như chúng ta biết, não bộ chia làm bán cầu não phải và trái, phát triển với tốc độ khác nhau. Bán cầu não phải chiếm ưu thế cho đến 3 tuổi. Khi lưu lượng máu chuyển sang bán cầu não trái, trong độ tuổi từ 3 đến 6 tuổi, bán cầu não trái phát triển đầy đủ hơn. Sau đó, bán cầu não phải phát triển đầy đủ hơn ở tuổi từ 7 đến 11 tuổi. Nhưng ở lứa tuổi từ 2 đến 11 tuổi, bán cầu não trái và phải hoạt động như một thực thể duy nhất. Trẻ em tự nhiên có khả năng ghi nhớ rất tốt với ngôn ngữ, chuỗi sự kiện kết nối đơn giản, câu chuyện giàu tưởng tượng và kỹ năng số học hạn chế, cũng như các chức năng đếm tiên khởi, ghi nhớ bản cửu chương.
Dữ kiện không cần phải hiểu thấu đáo. Phần lớn dữ kiện được hấp thụ trước tuổi 11, trong thời niên thiếu và tuổi trưởng thành, được lưu trữ trong bộ nhớ ngắn hạn (trong não trái), và sử dụng sự lặp lại chuyển nó và bộ nhớ dài hạn (trong não phải). Trẻ em bắt đầu tiểu học về âm nhạc, khiêu vũ, nghệ thuật thị giác và văn học, tâm trí sẽ bắt đầu được mở ra và hành động học tập sẽ là niềm vui và phiêu lưu lâu dài.
2/ Khi bắt đầu tuổi dậy thì, vào khoảng 11 tuổi, hai bán cầu não bộ bắt đầu hoạt động tự chủ. Bán cầu trái tuyến tính hơn, phân tích và khoa học trong hoạt động; trong khi bán cầu phải toàn diện hơn, tổng hợp và nghệ thuật. Chất lượng của sự hiểu biết trí tuệ bắt đầu đi vào cuộc sống thông qua các quá trình phân tích và tổng hợp. Các dữ kiện thu được trong thời thơ ấu, cũng như được tiếp tục, được chuyển đổi thành thông tin bởi bán cầu não giữ dữ kiện đó trong tâm trí, trong khi bán cầu não ngược lại, thực hiện phân tích (bên trái) hoặc tổng hợp (bên phải), bắt đầu giai đoạn Logic của sự hiểu biết. Chữ ‘giáo dục’ trong tiếng Anh có nguồn gốc từ giáo dục Latin, có nghĩa là rút ra. Để rút ra thông tin từ dữ kiện thô, bắt đầu từ giai đoạn văn phạm.
Theo Jean Piaget, trẻ em khi sinh ra tới 2 tuổi, tìm hiểu thế giới qua giác quan. Từ 2 tới 7 tuổi phát triển trí nhớ và trí tưởng tượng. Từ 7 tới 11 tuổi, ý thức hơn về những biến cố xảy ra. Và từ 11 tuổi trở lên, bắt đầu sử dụng logic để giải quyết các vấn đề. Tuổi vị thành niên được đánh dấu ở tuổi 21 khi sự phát triển xương thường chấm dứt, hóa học cơ thể chuyển hóa từ chủ yếu có tính axit sang độ kiềm, và răng hàm thứ ba (răng khôn) mọc ra. Người lớn bây giờ được định vị hoàn toàn theo nghĩa vật lý. Cơ thể và não bộ tiếp theo không thay đổi cho đến giữa tuổi 50.
Quay trở về nhà
Giáo dục cổ điển từ thời Phục Hưng đến 1880s, bắt đầu chuyển qua giáo dục hiện đại, thường được gọi là giáo dục tiến bộ (progressive education), nhanh hơn vào thập niên 1900s. Giáo dục tiến bộ lấy trẻ em làm trung tâm (child-centered), bắt nguồn từ ý tưởng trong luận thuyết giáo dục của Rousseau, cho rằng trẻ em vốn tốt và đơn giản, chỉ cần để trẻ em phát triển một mình theo tính tốt và bản năng tự nhiên của các em. John Dewey được coi là người khởi xuống phong trào trong quá trình đô thị hoá và công nghiệp hóa nhanh chóng tại Mỹ vào cuối thế kỷ 19. Học sinh được yêu cầu khám phá và đặt câu hỏi về thế giới xung quanh, quá khứ, hiện tại và tương lai, và hiểu biết thế giới với những quan điểm khác nhau. Các kỹ năng học tập và thực hành được tích hợp vào các bối cảnh có ý nghĩa, chịu trách nhiệm không chỉ cho hành động cá nhân, mà còn cho cộng đồng nói chung. Giáo dục nhấn mạnh vào các môn học hữu ích (bao gồm cả nghề nghiệp), “học bằng cách thực hành”, thảo luận nhóm, hơn là giảng dạy hoàn toàn từ sách giáo khoa, chuẩn bị cho học sinh đáp ứng với đời sống xã hội, môi trường đa văn hóa, phát triển các kỹ năng xã hội. Giáo dục tiến bộ phát triển chủ yếu nghiêng về não trái, quan tâm tới khoa học và lý luận để phát triển tâm trí, sản sinh ra lớp người thích cấu trúc, lập kế hoạch, làm việc một mình và giải quyết các vấn đề với logic. Điều ngẫu nhiên, từ khi giáo dục tiến bộ được áp dụng, cũng là thời điểm nổi lên phong trào thơ tự do, một loại thơ thuần lý, ảnh hưởng thế giới phương Tây suốt thế kỷ 20.
Tới năm 1947, trong bài nói chuyện ở đại học Oxford, “Những công cụ học tập đã mất” (The Lost Tools of Learn-ing), Dorothy Sayers quay về giáo dục cổ điển, với sự biến cải. Theo bà, tam khoa là phương pháp xử lý những môn học, còn tứ khoa bao gồm những môn học, vì vậy hồi phục giáo dục cổ điển thật ra chỉ cần hồi phục lại căn bản của giáo
dục là tam khoa. Tam khoa, trên thực tế, dạy cho học sinh cách sử dụng đúng đắn các công cụ học tập, trước khi bắt đầu áp dụng chúng vào “những môn học”. Nhưng ý kiến của Dorothy Sayers phải chờ đến hơn 3 thập niên sau, tới năm 1990, Douglas Wilson xuất bản cuốn “Recovering The Lost Tools of Learning”, bài nói chuyện của Sayers mới được nhắc lại, khởi động cho xu hướng quay về giáo dục cổ điển, với trên 500 trường tư và khoảng 10 ngàn phụ huynh theo đuổi chương trình giáo dục tam khoa. Ở Mỹ có khoảng trên 2000 trường tư, độc lập về tài chánh và đường lối giáo dục, song song với hệ thống giáo dục chính qui. Thật ra, giáo dục tiến bộ, với những mâu thuẫn nội bộ và tư tưởng giữa các nhà sư phạm và quản trị đã dự báo sự sụp đổ của phong trào. Ví dụ, vào năm 1935, một nghiên cứu quốc gia trong đó các nhà nghiên cứu đã kiểm tra 7000 học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông tại 24 trường trên toàn quốc đã chứng minh rằng học sinh trung học không biết nhiều về lịch sử của họ hoặc chính phủ (Emery, 1936). Hartman đánh giá các phong trào giáo dục tiến bộ trong những năm 1950, như là một thất bại bởi vì đã sai lầm trong việc truyền đạt giá trị cho các trường học của Mỹ. Và năm 1955, cơ quan quản trị chính của phong trào giáo dục tiến bộ đóng cửa, định hướng chung của giáo dục Mỹ chấp nhận các nghiên cứu học thuật cổ điển. Cuối năm 1960 và đầu những năm 1970, số lượng các trường học tiến bộ đã suy giảm, và nổi lên phong trào giáo dục tại gia (homeschool), chống lại giáo dục tiến bộ, đã lên tới gần 2 triệu trẻ em vào năm 2003 (homeschool được cung cấp miễn phí software học tập, chương trình giảng dạy, tài liệu giáo khoa, các video giảng dạy). Trở lại với bài nói chuyện, Dorothy Sayers không đặt ra vấn đề tuổi tác (áp dụng cho cả những người lớn tuổi), và tên gọi văn phạm, lý luận và hùng biện của tam khoa cũng chỉ những ẩn dụ, vì tam khoa là phương pháp học về bất cứ môn học nào.
Giai đoạn văn phạm (9 – 11 tuổi), được gọi là Poll-Parrot (bắt chức): Trong giai đoạn này học sinh học thuộc lòng, chấp nhận mọi sự vật không thắc mắc hay đặt câu hỏi. Học sinh ghi nhớ qua thơ và văn xuôi, và làm đầy ký ức với những câu truyện và huyền thoại, học những biến cố, ngày tháng và con người qua lịch sử. Về địa lý, ghi nhớ các thủ đô, những dòng sông, ngọn núi, những kiến thức về cây cối, thú vật, và các hành tinh. Về toán học, những kiến thức về số học, hình học … Tóm lại là những kiến thức cơ bản của mọi bộ môn.
Giai đoạn lý luận, hay biện chứng (dialectic stage), từ 12-14 tuổi, được gọi là pert (xấc xược): Giai đọan này được học cách suy nghĩ, cú pháp và phân tích, viết tiểu luận và phê bình, học số họ, hình học và toán cấp tiến. Về lịch sử, học sinh bàn cãi và tranh luận, nối kết giữa những biến cố. Doro-thy Sayers đòi hỏi trẻ em dùng những dữ kiện, kiến thức, những câu truyện và ngày tháng được ghi nhớ trong ký ức ở giai đoạn văn phạm làm tài liệu để tranh luận. Nói tóm lại là dạy học sinh cách tư duy.
Giai đoạn hùng biện (14-16 tuổi), được gọi là poetic (thơ mộng): Cũng giống như hai giai đoạn đầu, giai đọan hùng biện không hạn chế ở bất cứ môn học nào, mà truyền đạt kỹ năng diễn đạt qua mọi chủ đề. Nếu công việc giáo dục hoàn hảo, học sinh sẽ biết làm sao để ghi nhớ, phân tích những dữ kiện này và áp dụng một cách sáng tạo trong cuộc đời. Đến cuối giai đoạn Logic, các học sinh có lẽ bắt đầu tự khám phá ra rằng kiến thức và kinh nghiệm của họ là chưa đủ. Trí tưởng tượng – thường không hoạt động trong thời kỳ Pert – sẽ tái hiện, và nhắc họ nghi ngờ những hạn chế của logic và lý trí. Điều này có nghĩa rằng, họ đang đi vào thời poetic.
Những điều một khi đã học được bằng cách thuộc lòng sẽ nhìn thấy trong các ngữ cảnh mới và những điều một khi phân tích bây giờ có thể tập hợp lại để tạo thành một tổng hợp mới.
Khoảng thập niên 1990s, khi những chức năng não bộ phát triển, nhân loại bước qua một nền văn minh, với công nghệ thông tin, dĩ nhiên giáo dục cũng phải thay đổi để chuẩn bị bước vào thế kỷ 21. Các nguyên tắc giáo dục được liên kết trực tiếp với sự am hiểu khoa học thần kinh – The New Neuroscience Progressive Standards Framework (Khung tiêu chuẩn tiến bộ khoa học thần kinh mới) – bằng cách triển khai giữa triết học, tâm lý học và sinh vật học, khám phá sự học hỏi về lý thuyết, phát triển con người, khoa học và kỹ thuật (technology). Đến đầu năm 2000, khi internet và website phát triển nhanh chóng, giáo dục đang trở thành toàn cầu trên online.
Nếu văn minh cổ Hy lạp ảnh hưởng gián tiếp từ văn minh Ấn độ, qua ngả đường thương buôn cách đây trên 2500 năm, từ Ấn độ qua Mesopotamia (tương ứng với phần lớn Iraq, Ku-wait, một phần của miền Bắc Ả Rập Saudi, phần phía đông của Syria, Đông Nam Thổ Nhĩ Kỳ và các vùng dọc theo Thổ Nhĩ Kỳ– Biên giới Syria và Iran – Iraq) tới Mycenaean (Hy lạp), thì nền văn minh bây giờ không còn tùy thuộc vào bất cứ nền văn hóa nào, mà là nền văn minh đa văn hóa. Nếu văn minh Hy lạp phát triển nhờ nền giáo dục phù hợp với sự phát triển của con người, thì giáo dục online hiện nay, cũng đang theo một tiến trình học hỏi, tương tự tam khoa. Những trường đại học nổi tiếng như Havard, Stanford, MIT … đều có những chương trình giáo dục online miễn phí. Phương pháp tự học không cần giáo chức, trường lớp, giai đoạn kiến thức chủ yếu dựa vào lý thuyết hoặc những tài liệu căn bản và có giá trị nghiên cứu của mỗi bộ môn, qua sự cung cấp miễn phí của những cơ quan phi lợi nhuận như The Open-CourseWare (OCW), The Open Learning Initiative (OLI), Learner.org, Academic Earth, The Massachusetts Institute of Technology, Big Think. Giai đoạn hiểu biết (lý luận) thay thế bằng nhóm thảo luận, lập ra những blog riêng, các diễn đàn, hay các phương tiện mạng internet … Tóm lại, phương tiện tự học gồm hai giai đoạn chính, tiếp thu kiến thức (lý thuyết) và thảo luận để có sự hiểu biết cặn kẽ vấn đề.
Phương pháp thơ
Văn minh Hy lạp với những tên tuổi và thành tựu cho đến bây giờ vẫn thường được nhắc đến. Về thơ, với Homer và hai bản hùng ca Iliad va Odyssey. Triết học với các triết gia Socrates, Plato, Aristotle. Toán học và thiên văn: Thales, Eu-clid, Archimedes, Pythagoras … Và y khoa với danh y, Hyp-pocates. Và sản sinh ra phương pháp giáo dục cơ bản, góp phần vào việc phát triển nền văn minh phương Tây. Trở lại với tam khoa, nếu “hùng biện” phát sinh từ những sinh hoạt dân chủ, đưa tới những thể chế dân chủ hiện nay ở phương Tây, thì “văn phạm” và “lý luận” là hai phương pháp chính của giáo dục. Lý luận, vì vậy, là cốt lõi của nền giáo dục, tạo môi trường cho học sinh tranh luận, tìm ra ưu khuyết điểm, đúng sai những kiến thức được truyền thụ. Trong khoa học, giúp khám phá và phát minh, trong triết học là tiến trình tìm kiếm chân lý, hình thành những triết thuyết ở mọi thời đại. Và trong văn học, giúp tưởng tượng, kết hợp các tình tiết để trở thành câu truyện trong kịch, tiểu thuyết, và trong thơ, giúp liên kết những ý tưởng để hình thành tư tưởng. Trong phê bình, lý luận phải dựa trên những bằng chứng cụ thể (văn phạm) mới có thể thuyết phục, phân tích để tìm ra cái hay, cái dở, không chỉ là những suy diễn mông lung, không liên hệ gì tới tác phẩm.
Từ trước tới nay, từ Đông qua Tây, thơ là một phần của giáo dục, là phương tiện phát triển ngôn ngữ và văn học, đọc và viết, khơi dậy tưởng tượng, cảm xúc, khả năng ghi nhớ và sáng tạo, cùng mối liên hệ giữa con người và thế giới chung quanh. Tuy nhiên, chương trình chỉ dạy cho học sinh đọc và hiểu có tính cách tổng quát, còn muốn trở thành một nhà thơ chuyên nghiệp phải theo học những chương trình cao học. Ở Mỹ, với trên 500 trường cao đẳng và đại học có những lớp sáng tác (creative writing) nằm trong chương trình cao học nghệ thuật MFA (master of fine arts) đào tạo những nhà văn, nhà thơ, kết hợp giữa lý thuyết và thực hành. Dĩ nhiên, một nhà thơ không cần tới học vị, nhưng cần kiến thức và nguyên tắc bao quát về thơ, là giai đoạn khởi đầu, và tiếp theo là giai đoạn nối kết những yếu tố đã được tiếp nhận trước đó, trong sáng tác, để có tác phẩm mang tính sáng tạo và thuyết phục
ở giai đoạn cuối. Tam khoa trong thơ, qua ba giai đoạn: Kiến thức, hiểu biết, và tác phẩm.
1/ Kiến thức: Thơ tiếng Anh ngoài những yếu tố như thể thơ, luật tắc, vần, nhịp điệu, các kỹ thuật như sự lập lại âm đầu (Alliteration), sự trùng âm (Assonance), ẩn dụ (Metaphor), sự ví von (Simile), và những kỹ thuật của thơ tự do, còn có lý thuyết thơ. Những nhà thơ thể luật, thừa hưởng một nền giáo dục cổ điển, ngoài những sáng tác, còn có những tác phẩm tư duy về thơ. Với những phong trào tiền phong thơ tự do, họ coi lý thuyết cũng quan trọng như sáng tác. Vì vậy, kiến thức về thơ không dễ dàng tiếp thu chỉ với vài năm đại học, mà suốt đời.
2/ Hiểu biết: Thực hành sáng tác, phân tích kỹ thuật, phê bình thông qua những workshop, bao gồm một nhóm học viên cùng đọc, đưa ra những ý kiến phản hồi những tác phẩm của nhau, tập trung vào kỹ năng, cách áp dụng và kết nối những yếu tố thơ, chủ đề, và những kiến thức đã tiếp thu từ giai đoạn trước. Nhóm thảo luận nhấn mạnh đến việc khám phá và phát triển giọng điệu của từng cá nhân, đồng thời giúp chuyển bài thơ liền mạch hơn, những ý tưởng liên hệ và ăn khớp với nhau, đưa tầm nhìn của tác giả ra ánh sáng. Nhiều phong cách, cách tiếp cận thơ khác nhau, và kiến thức mới phát hiện trong các cuộc thảo luận, và học viên được khuyến khích thử nghiệm những phong cách mới.
3/ Tác phẩm: Hàm ý trong giáo dục cổ điển là tự diễn đạt,
ở đây là kết hợp giữa giai đoạn kiến thức và hiểu biết trong sáng tạo, thể hiện nơi tác phẩm của người làm thơ.
Những nhà thơ, sau khi tốt nghiệp, vẫn tiếp tục gắn bó với hai giai đoạn kiến thức và hiểu biết trong sinh hoạt, với những bài viết, thảo luận và công bố tác phẩm trên các diễn đàn thơ. Câu hỏi được đặt ra, tiếp thu kiến thức là điều cần thiết trong giáo dục, nhưng tại sao giai đoạn lý luận cũng quan trong không kém? Theo Jean Piaget, nhận thức bao gồm sự chú ý, trí nhớ ngắn hạn, trí nhớ dài hạn, lý luận & lý trí, và xử lý thính giác (auditory processing), xử lý thị giác (visual processing), và tốc độ xử lý. Đó là những kỹ năng bộ não sử dụng để suy nghĩ, học hỏi, đọc, ghi nhớ, chú ý và giải quyết các vấn đề (ở đây là sáng tác). Theo mô hình này, sự chú ý, trí nhớ ngắn hạn và trí nhớ dài hạn phát triển trong độ tuổi từ 2 đến 5. Xử lý thính giác và thị giác, yếu tố quan trọng cho kỹ năng đọc, phát triển từ 5 đến 7 tuổi. Lý luận và lý trí hình thành sau 11 tuổi, có khả năng kết nối tốt hơn giữa các ý tưởng. Trong giai đoạn logic, “liên kết các dữ kiện để tạo ra ý nghĩa, tìm kiếm sự thật, phân biệt đúng sai, học phương cách tư duy”, giúp học sinh chọn lựa những kiến thức quan trọng từ giai đoạn học thuộc lòng, tiếp tục ghi nhớ thêm những kiến thức mới, và đặc biệt, cách suy nghĩ qua tranh luận trở thành thói quen định hình, giúp giải quyết đúng các khó khăn trong cuộc sống.
Lý luận (logic) bắt nguồn từ truyền thống cổ Hy Lạp, được khám phá đầy đủ bởi Aristotle. Aristotle định nghĩa logic là “lý luận mới và cần thiết”, “mới” bởi vì nó cho phép học những gì chúng ta chưa biết, và “cần thiết” bởi vì kết luận của nó là không thể tránh khỏi. Hệ thống logic nên có ba điều: nhất quán (không có định lý nào của hệ thống mâu thuẫn với nhau); vững chắc (các quy tắc chứng minh của hệ thống không cho phép suy luận sai lầm từ một tiền đề thực sự); và đầy đủ (không có những ý kiến đúng không thể chứng minh được trong hệ thống, ít nhất về nguyên tắc). Lý luận là nghiên cứu về lập luận (argument). Chữ “argument” xuất phát từ tiếng Latin có nghĩa là cách giải quyết (solution) hoặc bằng chứng (proof), phân biệt lý lẽ tốt, từ lý lẽ xấu. Như vậy có nghĩa là lý luận dùng một thứ ngôn ngữ dễ hiểu với những bằng chứng cụ thể để lập luận làm sao thuyết phục người nghe về một đề tài nào đó. Trong giáo dục, logic dạy học sinh cách tư duy, kết nối và đào sâu sự hiểu biết những kiến thức mà học sinh đã tiếp thu từ giai đoạn văn phạm.